Tại Hội nghị toàn quốc về thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức khoa học công lập, bà Keiko Sato, Phó giám đốc Nhóm Ngân hàng Thế giới đã đưa ra kinh nghiệm cải cách của các viện R&D tại các nước thuộc khu vực Châu Âu và Trung Á (ECA).
Trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển, các nước đang phát triển ở Châu Âu và Trung Á có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam như: Tỉ lệ giữa đầu tư cho nghiên cứu và phát triển và GDP thấp, nhà nước gần như nắm độc quyền trong lĩnh vực khoa học và công nghệ và phần lớn kinh phí nghiên cứu dành cho R&D đến từ ngân sách nhà nước, cán bộ nghiên cứu cũng là công chức, viên chức.
Từ một nền khoa học được kế hoạch hóa tập trung như vậy nên hoạt động R&D của các viện nghiên cứu của các nước ECA không gắn liền với doanh nghiêp, không có sự tham gia của doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân vào quá trình ra quyết định chiến lược phát triển KH&CN nên các sản phẩm nghiên cứu ứng dụng không đáp ứng được nhu cầu sản xuất hoặc thị trường. Chính vì vậy, khi bước vào giai đoạn tái cấu trúc hệ thống các viện nghiên cứu, không chỉ giảm quy mô và số lượng của các tổ chức nghiên cứu mà còn thay đổi cơ chế quản lí từ nhà nước bao cấp sang tư nhân hóa, các viện này phải đối mặt với nhiều khó khăn. Trong đó, nổi bật là sự thiếu hụt về kinh nghiệm thị trường và thiếu một thế hệ các nhà khoa học trẻ năng động bởi đa số họ rời bỏ vị trí tại các nước ECA để làm việc tại các nước Tây Âu hoặc Mỹ trong khi bộ máy quản lí tại các viện nghiên cứu này đã trở nên “lỗi thời” (hầu hết các nhà quản lí khoa học đã quá 50 tuổi và được đào tạo từ nền giáo dục thời Xô-viết).
Một trong những cách giảm quy mô và số lượng của các viện nghiên cứu được áp dụng là sáp nhập các tổ chức nghiên cứu vào hệ thống các trường đại học. Ví dụ như Estonia (hiện nay đang đứng thứ 25/142 thế giới về chỉ số đổi mới sáng tạo) đã đóng cửa hầu hết viện nghiên cứu trực thuộc Xô-viết trước kia (23 viện), ngoại trừ các viện nghiên cứu về hai lĩnh vực thế mạnh của nước này là nông nghiệp và năng lượng. 17 Viện Hàn lâm được sáp nhập vào bốn trường đại học. Hiện nay, nước này chỉ có bảy viện nghiên cứu công lập. Còn tại Cộng hòa Séc, tất cả các viện nghiên cứu công nghiệp được chuyển đổi thành công ty và sau được tư nhân hóa hoàn toàn vào giữa những năm 1990, gắn liền với nhu cầu thị trường và cung cấp những dịch vụ phi nghiên cứu.
Qua kinh nghiệm của những viện nghiên cứu tại các nước đang phát triển ở Châu Âu và Trung Á, báo cáo của Ngân hàng Thế giới đưa ra phương thức chuyển đổi bốn nhóm tổ chức khoa học như sau:
Bà Keiko Sato nhấn mạnh phải công khai, minh bạch việc sử dụng ngân sách nhà nước cho nghiên cứu khoa học bởi đây là điều đảm bảo cho kết quả chuyển đổi các viện nghiên cứu được triển khai một cách bền vững. Chất lượng nghiên cứu và phát triển của Hàn Quốc đã có bước tiến bộ rõ rệt khi nước này từ năm 1999 đã có cơ chế tài trợ dựa trên hiệu quả hoạt động của các viện nghiên cứu qua các công cụ kiểm tra, đối chiếu thông qua sự tham gia của tư nhân, giới học thuật, tổ chức xã hội dân sự và chuyên gia nước ngoài để đảm bảo quá trình đưa ra quyết định không bị ảnh hưởng bởi hành vi tham nhũng và các nhóm lợi ích.
Bà cũng đưa ra 6 lưu ý mà các viện cần ghi nhớ khi thực hiện chuyển đổi các tổ chức nghiên cứu KH&CN sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, đó là:
Theo www.iasvn.org
Tin bài khác