Terry G. Cain, giám sát viên của Bộ phận Y tế Môi trường thuộc Phòng thí nghiệm vệ sinh Tiểu bang (SHL) Đại học Iowa (UI). Ông được cấp bằng về hóa học và lập trình máy tính của trường đại học Loras, Dubuque, Iowa. Ông đã làm việc trong các lĩnh vực hóa nông nghiệp, bức xạ, thử nghiệm chất gây nghiện, đảm bảo chất lượng, đáp ứng khẩn cấp, hệ thống thông tin phòng thí nghiệm và giám sát môi trường, chủ yếu về sắc ký khí kết hợp với khối phổ.
Tiến sĩ Michael D. Wichman đã làm việc cùng SHL tại UI từ năm 1987 và hiện đang là trưởng Bộ phận Y tế Môi trường và là Phó Giám đốc của SHL. Chuyên môn của ông là hóa học với bằng tiến sĩ phân tích hóa học từ trường Đại học bang Kansas. Lĩnh vực nghiên cứu hiện nay ông quan tâm bao gồm: đơn giản hóa các kỹ thuật chuẩn bị mẫu, giám sát môi trường đối với thuốc trừ sâu và hóa chất công nghiệp phân hủy, giám sát sinh học đối với chất chuyển hóa trong cơ thể người do tiếp xúc môi trường.
Hỏi: Phòng thí nghiệm vệ sinh Tiểu bang tại trường Đại học Iowa có những hoạt động nào liên quan tới môi trường?
Đáp: Wichman: Chúng tôi thực hiện kiểm tra phân tích nhằm hỗ trợ nhiều cơ quan địa phương và tiểu bang, bao gồm các sở y tế của hạt địa phương, Cục Tài nguyên thiên nhiên Iowa, Sở Y tế Iowa, Cục Thanh tra Và Khiếu nại Iowa, Cục An ninh nội vụ Iowa và các tổ chức khác. Chúng tôi đang tham gia vào các kiểm nghiệm bầu không khí, nước bề mặt, nước ngầm, nước uống – gồm cả nguồn nước công cộng và tư nhân – nước thải, nguyên liệu thực vật, đất, trầm tích và các loại đá quặng khác nhau. Nhiều cuộc thử nghiệm trong số đó được yêu cầu bởi các đạo luật khác nhau như Đạo luật Nước uống an toàn; Đạo luật Nước sạch; Đạo luật Không khí sạch; Đạo luật Thuốc trừ sâu, thuốc diệt nấm và thuốc diệt động vật gặm nhấm; Đạo luật Bảo tồn và Khôi phục tài nguyên. Chúng tôi cũng tham gia một số mạng lưới giải quyết sự cố ở cấp liên bang thuộc CDC (Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa bệnh dịch), EPA (Cơ quan Bảo vệ môi trường Hoa Kỳ), FDA (Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ).
Cain: Ngoài ra, chúng tôi tư vấn và thực hiện các thử nghiệm tư nhân cho các công dân. Vì vậy, nếu một người có một cái giếng riêng và họ có vấn đề hoặc chỉ muốn kiểm tra trạng thái của cái giếng, chúng tôi có thể hỗ trợ họ. Chúng tôi cũng phối hợp, thường là theo dự án, cùng với các nhà nghiên cứu từ Đại học Iowa, Đại học bang Iowa và các trường đại học tư ở bang này.
Hỏi: Ông sử dụng HPLC và GC cho những hoạt động đặc biệt nào ?
Đáp: Cain: Một phần của chương trình bao gồm thử nghiệm các sản phẩm phụ khử trùng hình thành sau khi nước uống được khử trùng bằng clo. Chúng tôi kiểm tra trihalomethanes bằng GC-MS, và kiểm tra các axit haloacetic - các sản phẩm phụ khử trùng, bằng cách thu electron GC. Chương trình thử nghiệm của chúng tôi bao gồm cả LC và GC. Chúng tôi có một mạng lưới các địa điểm kiểm soát không khí nơi mà chúng tôi hỗ trợ, và chúng tôi gửi thiết bị và hộp mực tới các địa điểm đó để thu mẫu không khí. Các mẫu được đưa về phòng thí nghiệm để xác định hàm lượng hydrocacbon khí thải ống xả và các hợp chất hữu cơ độc hại dễ bay hơi bằng phương pháp GC-MS. Các mẫu mực được sử dụng để xác định các hợp chất cacbonyl bằng LC.
Wichman: Chúng tôi cũng tìm kiếm các thành phần dễ bay hơi khác, chẳng hạn như những chất trong xăng: benzen, toluen, ethyl benzene, xylene (BTEX), và các chất hữu cơ bán bay hơi như hydrocacbon thơm đa vòng - chất phân tích có liên quan tới sự cố tràn dầu tại vịnh Mexico. Phòng thí nghiệm của chúng tôi thực hiện xác định thuốc trừ sâu và chất phân hủy thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ axit, thuốc diệt cỏ nitơ phospho, thuốc trừ sâu, thuốc diệt chuột, thuốc diệt nấm và các hợp chất khác như các sản phẩm chăm sóc cá nhân và dược phẩm bằng cả hai công nghệ GC và LC.
Cain: Thường thì các loại thuốc trừ sâu khác nhau đòi hỏi các phương pháp thử nghiệm khác nhau, vì vậy chúng tôi hỗ trợ rất nhiều loại xét nghiệm và quy trình. Các quy trình chiết tách khác nhau cũng như các quy trình phân tích khác nhau có thể được yêu cầu, tùy theo cấp hóa chất cụ thể. Ví dụ, thuốc diệt cỏ acid đòi hỏi một quy trình khác so với các loại thuốc trừ sâu phốt-pho nitơ. Rất nhiều hạng mục công việc thử nghiệm thuốc trừ sâu là theo dõi nước bề mặt. Các mẫu có thể thu được từ các vùng đầm lầy, sông, hồ, suối hoặc nước ngầm.
Hỏi: Phòng thử nghiệm của các ông đã gặp thách thức gì khi thử nghiệm HPLC và GC?
Đáp: Cain: Phần lớn những gì chúng tôi thực hiện theo thông lệ nhưng công việc đầy thách thức đi kèm với ma trận phức tạp hơn. Một vài năm qua chúng tôi đã làm phân tích cá nhiều hơn, nên việc chuẩn bị mẫu cá để có thể tiến hành phân tích đôi khi gặp khó khăn. Thỉnh thoảng chúng tôi sẽ nhận được một con cá nguyên tương đối lớn. Chúng tôi xay cá, đo hàm lượng chất béo, tìm ra cách để làm sạch mô, sau đó thực hiện chiết tách và tiến hành phân tích. Chúng tôi đang tìm kiếm các chất ô nhiễm tại mức độ phần trên một tỷ hoặc thậm chí thấp hơn, vì vậy đó là một thách thức. Các ma trận mô khác cũng luôn luôn là một thách thức.
Hỏi: Ông xử lý những thách thức như thế nào?
Đáp: Cain: Chúng tôi kỳ vọng cao vào đội ngũ nhân viên của mình, và may mắn là các nhân viên của chúng tôi có rất nhiều kinh nghiệm, vì vậy rất hiếm khi khi chúng tôi gặp phải tình huống mà chúng tôi chưa từng thấy trước đây. Thông thường chúng tôi tập trung cùng suy nghĩ và lập ra một kế hoạch, đôi khi đưa ra ý kiến trên cơ sở cá nhân. Chúng tôi cố gắng tìm xem kỹ thuật tốt nhất hoặc cách tốt nhất để giải quyết ma trận khó khăn là gì. Một thách thức khác đó là chúng tôi có các công cụ hoạt động khác nhau trên các nền tảng khác nhau. Có nhiều hệ thống phần mềm mà các nhà phân tích phải làm quen, và sau đó duy trì những nền tảng khác nhau là một thách thức. Nhưng, một lần nữa, tôi lại nhắc đến các nhân viên của chúng tôi. Họ rất kinh nghiệm, và nếu không có những kinh nghiệm đó, chúng tôi đã gặp khó khăn hơn nhiều.
Wichman: Một số vấn đề khác mà chúng tôi phải đối mặt đó là cố gắng để duy trì trang thiết bị hiện tại của mình và cố gắng để có được công nghệ mới với nguồn lực hạn chế. Để có được một số công nghệ mới nhất và tuyệt vời nhất, ví dụ như quang phổ kế có độ phân giải cao, là một thách thức. Công nghệ đó sẽ có ích cho chúng tôi đối với những vấn đề như PCBs (polychlorinated biphenyls) và PBDEs (ete diphenyl polybrominated), nhưng chúng tôi không có công nghệ đó và thực sự không đủ khả năng để mua nó. Hợp đồng dịch vụ cũng ngày càng đắt đỏ hơn. Chúng tôi có duy trì một hệ thống quản lý chất lượng trong phòng thí nghiệm để đảm bảo rằng nhân viên hoàn thành các phép thử nghiệm đã làm việc đúng với năng lực của họ. Điều đó được ghi chép, và các kết quả được kiểm tra và phê chuẩn. Tôi không nói là chúng tôi sẽ không bao giờ phạm sai lầm, nhưng chúng tôi cố gắng giữ việc phạm sai lầm ở mức tối thiểu.
Hỏi: Những thay đổi nào mà ông mong đợi trong tương lai đối với phòng thí nghiệm của mình?
Đáp: Cain: Sẽ luôn luôn có nhu cầu đối với các thử nghiệm mới và các yêu cầu mới, và nhu cầu để phát hiện mức độ ô nhiễm ở mức ngày càng thấp hơn. Tôi không mong đợi điều đó sẽ dừng lại. Ngoài ra, sẽ tiếp tục có nhu cầu đối phó một cách nhanh chóng với các tình huống môi trường khác nhau, nếu có một vụ tràn dầu hoặc hỏa hoạn. Khả năng đối phó với những sự kiện không lường trước được một cách nhanh chóng hơn sẽ tiếp tục là một vấn đề quan trọng.
Wichman: Chúng tôi đã gặp vài trận lũ lụt ở đây, và tất nhiên, việc có thể lường trước được những gì con người có thể hoặc không thể phơi nhiễm là khá quan trọng. Vì vậy, đây là một bước ngoặt đối với những thử nghiệm đó. Trong trận lũ năm 2008, chúng tôi có thể đáp ứng nhu cầu đó, nhưng vô cùng khó khăn. Chúng tôi phải áp dụng một cấu trúc đối phó với sự cố để đảm bảo rằng chúng tôi có thể đảm bảo thực hiện các phép thử nghiệm một cách kịp thời. Một số thay đổi khác mà tôi nghĩ đó là thay đổi về công nghệ. Rất nhiều thay đổi đang chuyển sang hướng phương pháp khối phổ hoặc khối phổ song song. MALDI-TOF là một công nghệ mới nổi khác mà chúng tôi thực sự muốn nghiên cứu.
Hỏi: Ông có lời khuyên chủ yếu nào cho các phòng thí nghiệm mà vừa mới bước vào lĩnh vực thử nghiệm môi trường và có thể còn chưa quen với HPLC và GC?
Đáp: Wichman: Còn phụ thuộc vào họ đang tiếp cận chương trình gì. Ví dụ, nếu họ đang tham gia vào lĩnh vực nước uống, họ nên đọc qua các phương pháp và chắc chắn rằng họ hiểu những gì các phương pháp yêu cầu. Sau đó, họ nên áp dụng một hệ thống quản lý chất lượng dựa trên tiêu chuẩn của Viện NELAC (TNI) hoặc tiêu chuẩn ISO 17025, một tiêu chuẩn nào đó để đảm bảo rằng họ đã triển khai một hệ thống kiểm soát chất lượng. Việc này có thể giúp tiết kiệm rất nhiều thời gian. Quy trình vận hành tiêu chuẩn của chúng tôi được viết và các phương pháp được phê chuẩn. Việc đào tạo chéo cũng rất quan trọng để các bạn có được sự linh hoạt, tùy thuộc vào quy mô của phòng thí nghiệm. Đối với chúng tôi, cho dù chúng tôi đang đối phó với lũ lụt hoặc hỏa hoạn, chúng tôi phải có khả năng chuyển đổi trọng tâm và nhanh chóng giải quyết những vấn đề này.
Cain: Về khía cạnh đảm bảo chất lượng, để thiết lập tất cả mọi thứ thì có phát sinh chi phí, nhưng việc này thực sự cần thiết. Các bạn thực sự cần phải triệt để trong khía cạnh này và tìm những người giỏi, người làm việc tốt và cẩn thận theo một cách tận tâm và đào tạo họ thật tốt.
Hỏi: Ông còn muốn chia sẻ thêm bất cứ điều gì nữa không?
Đáp: Cain: Chúng tôi đã nỗ lực rất nhiều trong việc phát triển và cải thiện hệ thống quản lý thông tin phòng thí nghiệm (LIMS). Tôi nghĩ rằng một phần quan trọng cấu thành của bất kỳ phòng thí nghiệm nào, đó là duy trì được một hệ thống quản lý thông tin tốt. Có hàng núi dữ liệu mà chúng tôi thiết lập, và việc giữ được các dữ liệu đó sắp xếp trong một hệ thống thông tin thực sự rất quan trọng.
Wichman: Có thể theo dõi việc kiểm soát chất lượng là điều cần thiết để các bạn có thể biết có điều gì đó không ổn, bạn cần có khả năng theo dõi nó. Một việc chúng tôi đã thực hiện đó là giao diện hóa trực tiếp các công cụ của chúng tôi vào LIMS, việc này tiết kiệm được rất nhiều thao tác nhập dữ liệu bằng tay. Đó sẽ là một việc có ích cho một phòng thí nghiệm mới tiếp cận lĩnh vực này. Chi phí thực hiện thì đắt, nhưng đó là một việc tốt để họ cân nhắc.
Theo www.labmanager.com
Tin bài khác