Phân tích ma túy đóng vai trò vô cùng quan trọng trong lâm sàng và trong độc chất pháp y. Trong giám định độc chất, việc xác định các chất ma túy không chỉ ở dịch sinh học mà còn phải giám định ở nhiều loại mẫu khác nhau.
Mẫu thông thường để xác định ma túy trong dịch sinh học là nước tiểu, máu. Tuy nhiên, các chất ma túy được phát hiện trong dịch sinh học có cửa sổ phát hiện hẹp, chỉ vài ngày sau khi sử dụng, nên để xác định người có sử dụng ma túy hay không trong thời gian dài thì khả năng phát hiện chúng trong dịch sinh học là không thể. Phân tích tóc có thể phát hiện được người sử dụng ma túy trước đó vài tuần đến vài tháng [83] và là một kĩ thuật bổ sung cho phân tích nước tiểu, máu nhằm phát hiện sự liên quan tới việc sử dụng ma túy hay không trong nhiều trường hợp âm tính đối với các mẫu dịch sinh học.
Tóc là mẫu đặc biệt hữu dụng trong lĩnh vực pháp y không chỉ vì cửa sổ phát hiện rộng mà còn bởi việc lấy mẫu dễ dàng, mẫu ít bị nhiễm và mẫu có thể được vận chuyển, bảo quản, lưu trữ một cách đơn giản.
Hiện nay, nhiều nước trên thế giới chấp nhận phân tích tóc là công cụ có giá trị để xác định những vấn đề liên quan trong nhiều lĩnh vực như pháp y, pháp luật, lâm sàng, nghiên cứu, cấp giấy phép lái xe.
Xuất phát từ thực tiễn trên, Cơ quan chủ trì Viện Pháp y Quốc gia cùng phối hợp với Chủ nhiệm đề tài PGS.TS. Nguyễn Tiến Vững thực hiện nghiên cứu “Xây dựng phương pháp phân tích đồng thời một số ma túy tổng hợp nhóm kích thích thần kinh dạng amphetamin trong tóc bằng sắc ký khối phổ” với mục tiêu: Xây dựng quy trình chiết xuất một số chất nhóm ATS (amphetamine type stimulants) từ mẫu tóc; Xây dựng quy trình phân tích đồng thời các chất thuộc nhóm ATS bằng sắc ký kết nối khối phổ.
Cho đến nay, trên thế giới chưa có một khái niệm thống nhất về “ma túy” hay “chất ma túy”. Theo Công ước thống nhất về các chất ma túy năm 1961 (Đã sửa đổi theo Nghị định thư 1972 sửa đổi Công ước thống nhất về các chất ma túy năm 1961): Ma tuý có nghĩa là bất kỳ các chất tự nhiên hay tổng hợp quy định trong các phụ lục I và II của Công ước.
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO): Ma túy là các chất khi đưa vào cơ thể sẽ làm thay đổi chức năng của các cơ quan nội tạng.
Luật phòng, chống ma túy Việt Nam số 23/2000/QH10 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng, chống ma túy số 16/2008/QH12 quy định: Chất ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong các danh mục do Chính phủ ban hành.
Ma túy theo gốc Hán Việt có nghĩa là “Làm mê mẩn”, trước đây thường để chỉ các chất có nguồn gốc từ cây thuốc phiện, giúp người sử dụng giảm đau, an thần. Ngày nay, dùng để chỉ tất cả các hợp chất tự nhiên và tổng hợp có khả năng gây nghiện.
Vậy có thể hiểu ma túy là những chất có nguồn gốc tự nhiên và tổng hợp, khi thâm nhập vào cơ thể con người sẽ làm thay đổi tâm trạng, ý thức và trí tuệ, làm cho con người bị lệ thuộc vào ma túy gây nên những tổn thương cho cá nhân và cộng đồng.
Đề tài đã xây dựng được quy trình xử lý mẫu tóc bằng ủ tóc đã được cắt ngắn trong dung dịch MeOH chứa 1% HCl trong 18 giờ.
Đã xây dựng được điều kiện chiết ATS trong tóc dựa trên chiết pha rắn sử dụng cột chiết Evidex là cột hỗn hợp cationit và pha đảo với hệ dung môi rửa giải ethyl acetat:methanol:amoniac (80:18:2).
Đã xác định các điều kiện GC-MS để phân tích đồng thời 05 chất nhóm ATS. Các chất phân tích được tách bằng sắc ký khí với pha tĩnh là cột HP5-MS theo gradient nhiệt độ, thể tích tiêm mẫu 1 µl, chế độ không chia dòng; phát hiện và định lượng bằng MS với nguồn ion hóa EI.
Lựa chọn được HFBA làm tác nhân tạo dẫn xuất cho nghiên cứu xác định đồng thời một số chất ATS. Đã xác định được thời gian tạo dẫn xuấtcủa các chất ATS với HFBA là 40 phút, nhiệt độ tạo dẫn xuất là 80 độ C với tỉ lệ của HFBA với EtOAc là 1:1 (v/v).
Đã sơ bộ đánh giá 05 chất ma túy tổng hợp ATS trong 58 mẫu tóc và của người sử dụng được gửi đến phân tích ma túy. Hầu hết các mẫu tóc đều phát hiện thấy ma túy. Một số mẫu tóc phát hiện có hàm lượng MA và MDMA rất cao.
Đã sơ bộ theo dõi tồn dư ATS trong một số mẫu tóc và kết quả không xác định được ma túy trong tóc sau 9 tháng bảo quản.
Có thể tìm đọc báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 18170/2020) tại Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia.
Nguồn Vista.
Tin bài khác