Nhóm nghiên cứu tại Đại học Quốc gia Seoul đã phát triển công nghệ “lều điện tử phân hủy sinh học”, cho phép chẩn đoán bệnh não theo cách không xâm lấn.
Trong quá trình phát triển, các tác giả tập trung thiết kế lều điện tử có thể trải đều và không bị hư hại trong không gian hẹp vài milimét giữa hộp sọ và não. Để làm được điều đó, nhóm đã sử dụng polyme nhớ hình và các thiết bị điện tử vô cơ siêu mỏng phân hủy sinh học. Lều điện tử, được tiêm qua một lỗ nhỏ trên hộp sọ bằng kim, sẽ mở ra để bao phủ toàn bộ não trên diện tích có kích thước bằng lòng bàn tay, trong không gian giữa hộp sọ và não.
Vì thiết bị tự phân hủy trong cơ thể sau khi chẩn đoán hoàn tất, sẽ giảm thiểu các vấn đề do thiết bị y tế còn sót lại gây tác phụ khi lưu lại lâu dài trong cơ thể, như đã thấy trong các phương pháp chẩn đoán truyền thống đối với bệnh động kinh và bệnh Parkinson.
Nhóm nghiên cứu cũng đã đo thành công các tín hiệu sóng não trong hai tuần sau khi đưa điện cực vào não của các mô hình động vật bằng lều điện tử phân hủy sinh học. Ngoài ra, các tác giả còn khẳng định tiềm năng ứng dụng trong cơ thể sống để theo dõi quá trình phân hủy sinh học của lều điện tử theo thời gian thực trong thời gian dài.
Lều điện tử phân hủy sinh học dự kiến sẽ được sử dụng theo nhiều cách khác nhau trong lĩnh vực y tế trong tương lai. Đặc biệt, lều điện tử phân hủy sinh học theo dự báo sẽ mang lại những thay đổi đáng kể cho các phương pháp chẩn đoán bệnh động kinh khó chữa và bệnh Parkinson.
Không giống như các phương pháp phẫu thuật xâm lấn truyền thống luôn mang lại rủi ro, công nghệ này ít xâm lấn để đưa các thiết bị điện tử vào bằng kim, cung cấp cho bệnh nhân một môi trường chẩn đoán tốt hơn. Hơn nữa, vì thiết bị điện tử tự phân hủy trong cơ thể sau khi hoàn tất nhiệm vụ, nên không cần phẫu thuật bổ sung để loại bỏ các thiết bị y tế còn sót lại, khiến nó trở thành một lựa chọn an toàn hơn cho bệnh nhân.
Công nghệ này được kỳ vọng sẽ được áp dụng để chẩn đoán các tình trạng não khác như đột quỵ và não úng thủy. Ngoài các ứng dụng trong chẩn đoán và điều trị, công nghệ cũng làm giảm sự phản đối của công chúng đối với các phương pháp đưa điện cực truyền thống dùng trong các công nghệ giao diện não-máy tính (BCI), chẳng hạn như các công nghệ đã được thử nghiệm trong các thí nghiệm cấy ghép não của Neuralink, do đó tăng cường tính khả thi của các công nghệ này.
Nguồn Medicalxpress.
Tin bài khác