Số điện thoại: 024 6683 9670
[Vietnamese]
[English]

Độ nhạy của kháng sinh- Cách tìm nồng độ ức chế tối thiểu (MIC)

25/05/2016

Những điểm chính

• Mục tiêu là để đo độ nhạy cảm của chất phân lập đối với một loạt các loại kháng sinh.

• Tại mức độ chịu đựng của từng cá nhân để kê đơn hiệu quả.

• Đánh giá các dạng kháng thuốc mới xuất hiện của vi khuẩn.

• Dữ liệu được sử dụng để điều chỉnh chính sách kê đơn tiêu chuẩn.

Que thử MIC

Kháng lại thuốc kháng sinh có thể xảy ra tự nhiên đối với sự kết hợp cụ thể của sinh vật/thuốc hoặc do khả năng đề kháng. Việc sử dụng sai kháng sinh dẫn đến trường hợp quần thể bị tiếp xúc với một môi trường mà trong đó các sinh vật có các gen kháng thuốc (do tự đột biến hoặc thông qua chuyển DNA từ tế bào đề kháng khác) có thể phát triển và lây lan.

Việc nhận dạng một sinh vật thường gắn liền với thử nghiệm AST, khi biết được loại sinh vật nào bạn đã cách ly cùng với kiến thức về vùng cách ly, sẽ cho biết loại thuốc kháng sinh nào cần được xem xét. Độ nhạy của chất phân lập đối với một loại kháng sinh cụ thể được đo bằng cách thiết lập nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) hoặc giá trị ngưỡng. Đây là nồng độ thấp nhất (thường được thử nghiệm trong dung dịch pha loãng gấp đôi) của kháng sinh mà ở mức đó chất phân lập không thể tăng trưởng rõ rệt sau khi ủ qua đêm.

Phương pháp

MIC có thể được xác định bằng kỹ thuật pha loãng thạch (agar dilution) hoặc pha loãng dung môi (broth dilution) theo các tiêu chuẩn tham chiếu được thiết lập bởi các cơ quan khác nhau như Viện Tiêu chuẩn Phòng thí Nghiệm và Lâm sàng (CLSI, Hoa Kỳ), Hội Hóa liệu kháng sinh Anh quốc (BSAC, Vương quốc Anh), AFFSAPS (Pháp), Viện Tiêu chuẩn Đức (DIN, Đức) và ISC/WHO .

Phương pháp pha loãng dung môi phụ thuộc vào việc cấy ở mật độ cấy cụ thể của dung môi (trong ống hoặc tấm vi phiếm - microtiter plates) có chứa kháng sinh ở các cấp độ khác nhau – dung dịch pha loãng gấp đôi thường được sử dụng. Sau khi ủ, độ đục được ghi lại qua quan sát hoặc với một máy đọc tự động, và giá trị ngưỡng nồng độ được thiết lập. Tấm vi phiếm hoặc các dải băng có thể dùng ngay được bán rộng rãi trên thị thường với kháng sinh được chuẩn bị sẵn. Một biến thể của phương pháp này là phương pháp pha loãng thạch. Trong phương pháp này, một lượng huyền phù nhỏ được cấy vào môi trường thạch có chứa một nồng độ kháng sinh cụ thể. Khi chất cấy đã khô, tấm vi phiếm được ủ và kiểm tra lại đối với các vùng tăng trưởng.

Đĩa khuếch tán hoặc thử nghiệm Kirby-Bauer là một trong những kỹ thuật vi sinh học cổ điển và hiện vẫn được sử dụng khá rộng rãi. Huyền phù của chất phân lập được chuẩn bị theo một tiêu chuẩn McFarland cụ thể, sau đó trải đều lên một môi trường thạch thích hợp (chẳng hạn như Mueller-Hinton hoặc môi trường thạch Iso-Sensitest™ được xác định về hóa học rõ ràng hơn) vào đĩa petri, đĩa ngâm tẩm với nồng độ kháng sinh khác nhau được đặt lên bề mặt thạch. Dụng cụ phân chia thể tích đĩa đa kênh (multichannel disk dispenser) có thể tăng tốc sự phân bố của các đĩa. Sau khi ủ, một vùng tròn rõ ràng không có tăng trưởng trong vùng lân cận của đĩa biểu thị độ nhạy đối với loại kháng sinh đó. Sử dụng các bảng tham chiếu kích thước của vùng có thể liên quan đến MIC và các kết quả ghi nhận rằng sinh vật có nhạy cảm (S), nhạy cảm ngay lập tức (I), hoặc có kháng thuốc (R) với kháng sinh đó hay không? 

Có một số yếu tố quan trọng trong cách tiếp cận này, ví dụ như môi trường được sử dụng; độ dày và độ ẩm của môi trường thạch; điều kiện ủ; mật độ cấy chính xác; đĩa phải được đặt vững chắc tiếp xúc với bề mặt thạch nếu không thì tốc độ khuếch tán sẽ không chính xác.

Một biến thể của phương pháp này là sử dụng một dải ngâm tẩm dọc theo chiều dài của nó, với độ chuyển nồng độ khác nhau của kháng sinh. Sau khi ủ, nó tạo ra một khu vực hình elip không có tăng trưởng. Tại điểm hình elip tiếp xúc với dải, có thể đọc được giá trị MIC từ các dấu nồng độ trên dải. Các dấu nồng độ này có thể được đọc rất dễ dàng, không cần các bảng tham chiếu để có được giá trị MIC và việc thử nghiệm đòi hỏi thao tác ít hơn, do một dải sẽ bao gồm toàn bộ phạm vi nồng độ. Các dấu này có thể đọc thủ công hoặc đọc bằng dụng cụ.

Dù sử dụng phương pháp nào đi nữa, kết quả cung cấp một điểm cắt (cut off point) quan trọng tương đương với nồng độ ức chế tối thiểu của kháng sinh cho thử nghiệm chất phân lập đó, và các phương pháp ban đầu đòi hỏi việc chuẩn bị một canh trường thuần khiết, có thể mất 1-2 ngày.

Đĩa kháng sinh chuẩn bị trước với đầy đủ tài liệu QC được cung cấp bởi nhà sản xuất duy trì khả năng tái lặp và làm tăng đáng kể độ tin cậy khảo nghiệm. Các đĩa nên luôn luôn được sản xuất theo một đặc điểm kỹ thuật phù hợp, ví dụ FDA, WHO, DIN. Các tiêu chuẩn DIN có phạm vi hẹp nhất với nồng độ kháng sinh trong khoảng 90% -125% của chất đã nêu. Đĩa khuếch tán và kỹ thuật pha loãng dung môi có thể được thực hiện bán tự động bằng cách sử dụng máy phân tích ảnh để đọc các vùng hoặc bộ phận đọc độ đục cho dung môi. Những thiết bị này đưa ra kết quả khách quan hơn và có thể đi kèm với phần mềm tự động giải thích kết quả.

Đối với các phòng thử nghiệm thực hiện một số lượng lớn các xét nghiệm và có đầy đủ các hệ thống tự động được sử dụng rộng rãi, thường kết hợp thử nghiệm nhận dạng với thử nghiệm độ nhạy. Khi toàn bộ thử nghiệm được thiết lập và đọc tự động không chỉ giúp giảm khối lượng công việc mà kết quả còn giảm bớt tính chủ quan hơn, tái sản xuất nhiều hơn. Kết quả thường có nhanh hơn, có thể có kết quả cùng ngày do các công cụ theo dõi sự tăng trưởng liên tục đọc và có kết quả trên cơ sở động học tăng trưởng. Trong khi hệ thống tự động có nhiều lợi thế, chúng có thể kém linh hoạt trong việc lựa chọn kháng sinh có sẵn, chi phí sử dụng thường cao hơn và chi phí thiết bị cần phải được đáp ứng bằng cách mua thẳng, thuê hoặc hợp đồng thuê thử, cùng với phí dịch vụ và bảo trì.

Đối với bộ phận đọc vùng bán tự động, hệ thống độ nhạy và ID hoàn toàn tự động, các dữ liệu thu thập được có thể được đánh giá bởi chuyên gia hoặc các hệ thống phần mềm thông minh để giải thích, nhấn mạnh các kết quả khác thường, đề xuất các loại kháng sinh có thể thử khác và xuất sang hệ thống LIMS khác để báo cáo chi tiết hơn. 

Nhận xét

Việc xác định MIC nhanh, chính xác đảm bảo hiệu quả điều trị tối ưu cho bệnh nhân, đồng thời phòng tránh việc kê đơn quá liều, điều này giúp tiết kiệm tiền cho gia đình bệnh nhân cũng như làm giảm sự phát triển của kháng thuốc.

Xét nghiệm này có thể thực hiện hoàn toàn bằng tay hoặc tự động với một loạt các giai đoạn bán tự động ở giữa. Sự lựa chọn sẽ phụ thuộc vào thực trạng phòng thử nghiệm cụ thể. Nhưng dù sử dụng một hệ thống thủ công hay tự động thì áp lực theo dõi các dạng kháng thuốc ngày càng gia tăng và phần mềm có thể thu thập và xử lý các yêu cầu báo cáo đang trở thành vấn đề sống còn.

Theo www.rapidmicrobiology.com