Số điện thoại: 024 6683 9670
[Vietnamese]
[English]

Vai trò của thử nghiệm phân tích trong duy trì an toàn thực phẩm

15/07/2015

Các phương pháp phân tích tiên tiến đang được phát triển để giải quyết những vấn đề an toàn thực phẩm đang nổi lên. Các phương pháp được tạo dựng và được chính thức chấp thuận đang được sử dụng để theo dõi các vấn đề đã được biết đến. Những phương pháp phân tích mới đã nhiều lần được phát triển và thay đổi nhanh để đáp ứng các vấn đề bất ngờ như nhiễm melamine. Trong những trường hợp này, dữ liệu chính xác từ các phương pháp phân tích đúng và được xác nhận giá trị sử dụng là yêu cầu để cho phép các bên liên quan trong ngành và cơ quan quản lý đưa ra những quyết định khoa học đúng đắn.

Qua nghiên cứu, những năm gần đây, hàng loạt phương pháp phân tích được những cải tiến, tạo ra độ nhạy cao hơn với những chất ô nhiễm khó phát hiện, sự phát hiện các chất ô nhiễm trong các lớp chất nền mới và thời gian cho kết quả quay vòng nhanh hơn. Trước mắt, tinh thần đổi mới này sẽ tiếp tục là cốt yếu trong những nỗ lực của ngành để đảm bảo an toàn cho chuỗi thực phẩm toàn cầu.

Ô nhiễm vi sinh vật

Khi bạn nghe cụm từ “an toàn thực phẩm” thì có phản ứng tự nhiên là nghĩ về các vấn đề vi sinh đầu tiên. Vài thập kỷ qua, các vụ ngộ độc thực phẩm liên quan đến các vi khuẩn gây bệnh như Salmonella, Campylobacter, Listeria monocytogenes và Escherichia coli 0157:H7 đã đi sâu vào ý thức dư luận.

Salmonella là tác nhân gây bệnh được quan tâm số một tại Mỹ, gây ra hơn 19000 trường hợp nhập viện mỗi năm theo thống kể của Các trung tâm kiểm soát và ngăn ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ.

Ô nhiễm hóa học

Nhận thức công chúng về các vấn đề an toàn hóa học hiện đang được nâng cao. Những sự kiện gần đây trên các đầu mục tin tức đang nhấn mạnh những thách thức an toàn đa dạng và thách thức phân tích do ô nhiễm hóa học.          

Sau nhiều năm xem xét, Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đề xuất một mức hành động ở 10 ppb với arsen vô cơ trong nước táo. Trong hai thập kỉ, FDA đã theo dõi arsenic và các chất ô nhiễm khác trong nước táo. Kết quả của nghiên cứu gần đây nhất của FDA với nước táo chỉ ra rằng phần lớn các mẫu đều dưới mức hành động với arsen vô cơ.

Mức độ arsen cao hơn trong các sản phẩm nước ép đã được báo cáo trong những nghiên cứu trước. Môt mức độ hành động và đánh giá rủi ro của arsen trong gạo và các sản phẩm từ gạo có thể là bước đi tiếp theo và FDA mới đây đã đưa ra kết quả thí nghiệm phân tích, chỉ rõ mức độ tìm thấy là quá thấp để gây nên “ảnh hưởng sức khỏe ngay lập tức hay ngắn hạn.” Tuy nhiên, tiếp theo FDA sẽ đánh giá nguy cơ tiềm tàng ảnh hưởng tới sức khỏe từ việc tiếp xúc lâu dài với arsen trong gạo và các sản phẩm từ gạo.

Acrylamide từ lâu đã là một phần trong khẩu phần ăn của con người, thường được sử dụng rộng rãi trong các sản phẩm. Acrylamide thường có trong khoai tây, ngũ cốc và các thực phẩm giàu carbonhydrate khác. Do những cản trở của chất nền nội sinh vốn có đối với các thực phẩm giàu tinh bột, phân tích acrylamide cho thấy nhiều thách thức.

Xây dựng sự đồng thuận

Khủng hoảng melamine 2007 đã có tác động lớn đến ngành thực phẩm, là một ví dụ điển hình của việc xây dựng một quá trình để nhanh chóng đạt dược đồng thuận khoa học trong các phương pháp phân tích. Đầu tiên, khi melamine và các hợp chất liên quan được tìm thấy trong nhiều nguồn thực phẩm, các vụ việc liên tục đã dẫn tới các cuộc nghiên cứu cả ở tại Hoa Kỳ và các nước khác. Các cơ quan quản lý và các phòng thí nghiệm trên toàn cầu đã phát triển các phương pháp, thu thập dữ liệu và báo cáo các phát hiện một cách có trách nhiệm.

Tại cuộc họp tháng 12 năm 2008 của WHO, các chuyên gia an toàn thực phẩm đã quy định ngưỡng melamine có thể chấp nhận. Canada là quốc gia đầu tiên sử dụng các hướng dẫn mức dung nạp hàng ngày có thể chấp nhận được phù hợp với hướng dẫn của WHO.

Rõ ràng là ngành công nghiệp này có thể và nên làm nhiều hơn để xử lý những cuộc khủng hoảng tiếp theo. Tham gia các tổ chức được công nhận toàn cầu như Mạng lưới cơ quan an toàn thực phẩm quốc tế, một phương pháp sẽ được nhất trí và nhanh chóng chuẩn hóa bởi các chuyên gia để bù đắp cho những tác động của một cuộc khủng hoảng.

Phát triển để đáp ứng nhu cầu thay đổi

Khi những vụ việc đáng tiếc như trên xảy ra, hơn cả tác động kinh tế lớn tới các công ty thực phẩm, niềm tin của người tiêu dùng đã bị tổn hại. Thị trường công nghiệp vi sinh bị chi phối bởi các quan ngại chung, các quy định và yêu cầu đối với kết quả nhanh và dữ liệu có giá trị gia tăng.

Thử nghiệm vi sinh sẽ tiếp tục tiến tới các phương pháp kỹ thuật nhanh chóng và nhạy hơn bao giờ hết. Một kích thước mẫu lớn hơn làm tăng độ nhạy, tăng khả năng tìm được các mối quan tâm vi khuẩn và cuối cùng là giảm được rủi ro.

Như một phần của giai đoạn chuyển đổi này, ngành công nghiệp thực phẩm có thể tìm tới những công nghệ và ứng dụng hiện hành trong các ngành công nghiệp lân cận. Do những nỗ lực liên tiếp của các phòng thí nghiệm nghiên cứu và các công ty chuẩn đoán thí nghiệm hàng đầu, sự phát triển thử nghiệm vi sinh có khả năng sẽ bao gồm tiếp tục đạt được tốc độ, cũng như chiều sâu của các phân tích.

Các phân tích hóa học là một phần quan trọng trong những chương trình chất lượng và chương trình an toàn. Một vài các vấn đề đang được quan tâm hiện nay là thuốc trừ sâu, chất độc, thuốc thú y, kim loại nặng, chất gây dị ứng, các chất pha trộn để gian lận kinh tế và chất gây ô nhiễm môi trường.

Thiết bị đo như phương pháp sắc ký lỏng khối phổ (LC-MS/MS) và sắc ký khí – MS/MS cho chúng ta khả năng phát hiện các chất gây ô nhiễm hóa học ở nồng độ rất thấp, nâng cao niềm tin trong cung cấp thực phẩm. Để nâng cao chất lượng giám sát, ngành đã phát triển một số phương pháp đa dư lượng, trong đó nhiều chất có thể được phân tích cùng một lúc. Tuy nhiên, có những hạn chế là một số dư lượng và các chất chuyển hóa có thể không được hiện lên màn hình. Hơn nữa, do các quy trình chiết xuất khác nhau, một phương pháp không thể áp dụng cho tất cả các trường hợp.

Những phương hướng mới

Các thành phần không mong muốn hay không được công bố có thể lẫn vào thực phẩm do cố ý hoặc vô tình. Với những sự cố này, thử nghiệm có nhắm mục tiêu không thể trực tiếp xác định được vấn đề và sẽ chỉ có tác dụng khi các hợp chất hóa học đã được biết đến. Những tiến bộ trong thiết bị phân tích và phần mềm phân tích dữ liệu đang cho phép sự phát triển của các quy trình thí nghiệm không mục tiêu để tạo ra một “đặc điểm nhận dạng” của một nguyên liệu (hay thực phẩm). Dữ liệu của các thử nghiệm tiếp theo về nhiều nguyên liệu (hoặc các sản phẩm thức ăn mới) được so sánh với “đặc điểm nhận dạng” cơ sở, khi “mức độ chênh lệch”lớn sẽ nâng cao cảnh báo. Với mức chênh lệch lớn cần những kiểm tra sâu hơn để đánh giá khả năng ô nhiễm với nguyên liệu hay thực phẩm.

Một trường hợp gần đây đã sử dụng LC-MS/MS kết hợp với phân tích thành phần chính (PCA) để nhận biết thực phẩm bị pha trộn và không bị pha trộn. Sau khi chiết xuất các thành phần phân cực và không phân cực của nhiều nguyên liệu thực phẩm, hai loại thành phần này được phân tích tổng quát riêng trên một cột C18 với máy dò MS/MS. PCA xác định các thành phần trội (spike) như có “mức độ chênh lệch lớn”. Dữ liệu MS cho phép xác định các chất bị pha trộn

Các công nghệ khác cũng đã cho thấy là có thể xác định nguyên liệu bị pha trộn tiềm tàng. Một ví dụ sử dụng cộng hưởng từ hạt nhân. Phân tích với bước sóng cận hồng ngoại cộng với phân tích dữ liệu hoá lượng (chemometric) đang được sử dụng trong ngành công nghiệp thực phẩm như một công cụ đảm bảo chất lượng. Công nghệ này đã được mở rộng để giám sát thực phẩm bị pha trộn.

Vượt ngoài tầm nắm bắt của chúng ta

Sự sẵn có của các phương pháp thí nghiệm nhạy hơn, nhanh hơn và chính xác hơn đang nâng cao hiệu quả thí nghiệm, cải thiện các chương trình an toàn thực phẩm và giúp tạo nên một nguồn cung thực phẩm an toàn. Các tiến bộ công nghệ cho phép ngành đáp ứng các thách thức phân tích trong thử nghiệm sản phẩm thực phẩm, điều đã nằm ngoài tầm nắm bắt cúa chúng ta trước đây không lâu.

Nam Dương dịch

Theo www.foodsafetymagazine.com