Số điện thoại: 024 6683 9670
[Vietnamese]
[English]

Phát hiện Helobacter pylori trong mẫu lâm sàng

01/08/2016

Các điểm chính

·         Các phương pháp không xâm lấn giúp tiết kiệm chi phí đáng kể so với nội soi xâm lấn.

·         Một số phương pháp nhanh có độ nhạy bén và độ đặc hiệu cao.

·         Xét nghiệm phân và hơi thở có thể được sử dụng để giám sát việc tiêu diệt nhiễm trùng bằng cách xử lý kháng khuẩn.

Phát hiện và chẩn đoán

Việc xét nghiệm nhiễm trùng H. pylori đã trở thành một phần cực kỳ quan trọng trong quá trình chẩn đoán bệnh viêm dạ dày và tá tràng, do việc có nhiễm trùng hay không sẽ quyết định phương pháp điều trị được áp dụng. Xét nghiệm cũng là một công cụ hữu ích để giám sát hiệu quả của các đợt điều trị bằng kháng sinh. Một số các phương pháp chẩn đoán xét nghiệm khác nhau đều có thể sử dụng, cả phương pháp xâm lấn và không xâm lấn.

Các phương pháp xâm lấn

Bộ mẫu sinh thiết từ các vùng bị viêm nhiễm hoặc loét dạ dày và tá tràng trong khi nội soi xâm lấn được coi là phương pháp tham khảo cho việc chẩn đoán nhiễm trùng H. pylori. Vật liệu sinh thiết có thể được kiểm tra bằng một hay nhiều phương pháp nằm trong ba phương pháp xét nghiệm khác nhau.

Khám nghiệm mô học - nhuộm và kiểm tra các mẫu mô cho phép đánh giá cả các tổn thương tế bào và chuẩn đoán các tế bào H. pylori tại chỗ. Xác định mô học hiện đang được coi là "tiêu chuẩn vàng" của các xét nghiệm chẩn đoán.

Xét nghiệm urease - xét nghiệm so màu tìm kiếm sự hiện diện hoạt động của enzym urease (biểu thị việc nhiễm H. pylori) trong mẫu sinh thiết. Phương pháp này có thể được sử dụng để cung cấp sự xác định nhanh chóng của việc nhiễm trùng tại thời điểm sinh thiết.

Canh trường và phân lập H. pylori – mẫu mô có thể được đồng nhất, hoặc tiêm trực tiếp vào môi trường thạch chọn lọc. Thông thường, các canh trường được ủ ít nhất 3-5 ngày ở 35oC trong điều kiện vi hiếu khí. Các chủng phân lập có thể được xác nhận là H. pylori bằng cách nhuộm Gram, phản ứng enzym urease và các cách kiểm tra nhận dạng truyền thống khác. Các phương pháp PCR cũng được phát triển, nhưng vẫn chưa phổ biến rộng rãi. Canh trường và phân lập là cần thiết nếu bắt buộc xét nghiệm kháng sinh đồ.

Xét nghiệm xâm lấn được cho là một phương pháp đặc hiệu cao - đặc biệt là khám nghiệm mô học - nhưng độ nhạy của nó phụ thuộc một phần vào độ chính xác của quá trình sinh thiết, do mẫu mô từ các khu vực mà chỉ có số lượng vi khuẩn thấp có thể cho kết quả âm tính giả. Nội soi cũng là một quy trình tốn kém và đòi hỏi khắt khe, yêu cầu đội ngũ nhân viên có tay nghề cao, được đào tạo kĩ càng và quy trình này khá khó chịu cho bệnh nhân.

Cả hai phương pháp khám nghiệm mô học và canh trường của các mẫu sinh thiết đều là những phương pháp đáng tin cậy, nhưng chúng tốn nhiều thời gian và đòi hỏi các cơ sở phòng thí nghiệm chuyên dụng với đội ngũ nhân viên được đào tạo kĩ càng. Xét nghiệm urease là phương pháp nhanh chóng hơn và ít tốn kém hơn, nhưng vẫn đòi hỏi thủ thuật xâm lấn để lấy mẫu.

Các phương pháp không xâm lấn

Một số kỹ thuật xét nghiệm chẩn đoán không xâm lấn cho H. pylori đã được phát triển và xét nghiệm dựa trên ba phương pháp trong số này đang được sử dụng rộng rãi.

Xét nghiệm huyết thanh học

Những người bị nhiễm H. pylori thường có kháng thể IgG và IgA cụ thể luân chuyển trong máu của họ và chúng có thể được phát hiện bằng xét nghiệm huyết thanh học. Một số xét nghiệm hiện có trên thị trường đã được phát triển, chủ yếu dựa vào việc phát hiện kháng thể IgG, được coi là phương pháp nhạy hơn và đặc hiệu hơn một chút. Phát hiện kháng thể thường bằng các phương pháp xét nghiệm miễn dịch enzyme (EIA) định tính dùng định dạng xét nghiệm microplate, mặc dù hệ thống xét nghiệm miễn dịch tự động cũng được phát triển. Cũng có sẵn các xét nghiệm nhanh có thể được áp dụng tại điểm xét nghiệm nhanh tại chỗ, có thể dựa trên công nghệ miễn dịch (xét nghiệm que thử nhanh) hoặc ngưng kết latex. Xét nghiệm định lượng có giá trị hạn chế hơn.

Độ nhạy và độ đặc hiệu của xét nghiệm huyết thanh học có giá trị từ 80% đến 95% tùy thuộc vào xét nghiệm cụ thể, nhưng nó là phương pháp tốn ít thời gian và đỡ tốn kém hơn so với các phương pháp xâm lấn và đỡ khó chịu hơn đáng kể cho bệnh nhân. Tuy nhiên, xét nghiệm huyết thanh học không thể dùng để theo dõi tiến độ của liệu pháp kháng sinh, do có những bệnh nhân mà sự nhiễm trùng của họ đã được loại trừ nhưng có thể tiếp tục mang theo các kháng thể trong huyết thanh đặc trưng cho H. pylori trong vài tháng sau khi điều trị thành công.

Xét nghiệm hơi thở

Xét nghiệm hơi thở sử dụng khả năng của H. pylori để sản xuất lượng lớn enzym urease làm đặc điểm chẩn đoán. Bệnh nhân được yêu cầu uống một dung dịch urê dán nhãn đồng vị 13C hoặc 14C. Nếu xuất hiện nhiễm trùng H. pylori, urê sẽ được chuyển hóa bởi các vi khuẩn, sản xuất ra amoniac và dán nhãn carbon dioxide, có thể được phát hiện trong hơi thở của bệnh nhân bằng cách đếm phóng xạ hoặc khối phổ. Xét nghiệm hơi thở dựa trên urê dán nhãn-13C và sử dụng quang phổ hồng ngoại để đo tỷ lệ 13C đến 12C trong một mẫu hơi thở đã được phát triển thành một sản phẩm có sẵn trên thị trường để sử dụng tại các điểm xét nghiệm nhanh tại chỗ. Xét nghiệm hơi thở cho thấy có độ nhạy và độ đặc hiệu cao (94-98%) và có thể được áp dụng với chi phí vừa phải. Phương pháp này cũng thích hợp để theo dõi hiệu quả điều trị vì nó đặc hiệu đối với nhiễm thực và có thể được sử dụng để xác nhận sự nhiễm trùng đã bị tiêu diệt.

Xét nghiệm phân

Gần đây, các xét nghiệm mới đối với nhiễm trùng H. pylori đã được phát triển dựa trên sự phát hiện của các kháng nguyên đặc hiệu trong phân của người bị nhiễm trùng. Các xét nghiệm này thường là xét nghiệm dựa trên EIA, hoặc khuếch đại EIA và một số xét nghiệm có sẵn theo kiểu que thử nhanh tại các điểm xét nghiệm nhanh tại chỗ. Xét nghiệm kháng nguyên trong phân đã được chứng minh là đáng tin cậy, không tốn kém và dễ sử dụng. Phương pháp này cũng có lợi thế là chỉ biểu thị nhiễm thực. Điều này có nghĩa rằng phương pháp này có thể được sử dụng để theo dõi việc tiêu diệt nhiễm trùng bằng cách điều trị kháng sinh và cũng có thể phát hiện việc nhiễm trùng lặp lại.

Theo www.rapidmicrobiology.com